Thạc sĩ Kiến trúc

Thạc sĩ Kiến trúc

Mùa thu 1999

Mùa thu 1999, tôi tham gia lớp luyện thi vào Cao học Kiến trúc. Có 3 môn thi: Lý thuyết Kiến trúc, Hình hoạ, Ngoại ngữ. Lý thuyết Kiến trúc do thày Thu (Hiệu phó trường Đại học Xây dựng Hà Nội) giảng dạy. Hình hoạ do thày Cứ (trưởng khoa Cao học trường ĐH Xây dựng HN) giảng dạy. Ngoại ngữ là môn học vất vả nhất vì trước đó tôi đã học 9 năm môn tiếng Nga. Bây giờ phải chuyển sang học tiếng Anh để thi đầu vào. Một tuần tôi tham gia học 3 buổi chiều tiếng Anh do cô Khang (giáo viên trường ĐH Hàng Hải) dạy. Và tôi phải đăng ký học thêm 3 buổi tối tiếng Anh do thày Tuấn (Tuấn Nhị) dạy.

Mùa xuân 2000, tôi cưới vợ. Cả lớp ôn thi vào Cao học Kiến trúc gồm 16 học viên đến dự vui vẻ. (Anh Cán, anh Hiến, anh Thái, anh Hải, anh Nghiệp, anh Dũng, anh Thuấn, anh Tuệ, anh Du, chị Nghĩa, chị Nhung, Toàn, Điệp, Linh, Lân).

Mùa hè 2000, cả lớp ôn thi Cao học Kiến trúc lên Hà Nội thi đầu vào. Cả lớp tôi ăn nghỉ tại Khách sạn Kim Liên trong 4 ngày đêm. Có một chuyện vui vui. Cả lớp tôi đi từ chiều thứ 6 để sáng thứ 7 làm thủ tục trước khi vào thi tại trường đại học Xây dựng HN. Riêng tôi và anh Tuệ hẹn nhau 4h sáng thứ 7 mới bắt đầu đi từ Hải Phòng lên Hà Nội. Đúng 7h30p sáng thứ 7, tôi và anh Tuệ có mặt tại trường kịp làm thủ tục trước khi thi Cao học Kiến trúc. Sáng thứ 2 chúng tôi thi môn Hình hoạ. Chiều thứ 2 chúng tôi thi môn Lý thuyết Kiến trúc, không khí cả lớp phấn chấn vì làm bài tốt đẹp. Sáng thứ 3 chúng tôi thi môn tiếng Anh. Buổi trưa ăn cơm, một không khí man mác buồn bao trùm vì cả lớp làm bài không được tốt lắm. Nếu như môn tiếng Anh chỉ được dưới 50 điểm, thì sẽ trượt. Chiều thứ 3 cả lớp tôi về Hải Phòng trong tâm trạng hồi hộp đợi kết quả thi đầu vào.

Rồi công việc cuốn chúng tôi vào vòng xoáy. Học viên trong lớp phần lớn là lãnh đạo Sở, lãnh đạo Viện, lãnh đạo Công ty, lãnh đạo các Phòng ban thiết kế và Chuyên viên quản lý kiến trúc…

Mùa thu 2000

Mùa thu 2000, tôi nhận được tin báo đỗ vào Cao học Kiến trúc. Lý thuyết Kiến trúc được: 8,5 điểm, Hình họa được: 9,0 điểm và tiếng Anh được: 56 điểm. Lớp ôn thi Cao học của tôi đỗ 13 học viên.

Ngày khai giảng năm học mới, cả lớp tôi lên trường Đại học Xây dựng dự lễ Khai giảng năm học mới và Lễ trao bằng tốt nghiệp Cao học Kiến trúc khoá trước. Tôi gặp một số bạn Kiến trúc sư thời Đại học như: Nguyễn Cao Luận, Phí Triệu Phi, Trần Phương Dung, Nguyễn Đình Thi,… lên nhận bằng Thạc sĩ Kiến trúc.

Mùa xuân 2001, lớp Cao học Kiến trúc bắt đầu chính thức vào học tại địa điểm Khoa sau Đại học trường ĐH Hàng Hải. Có thêm 3 KTS vào học cùng và được cho nợ đầu vào, như vậy có 16 KTS theo học Cao học Kiến trúc.

Tháng 4.2001. Chúng tôi học môn Triết học và thi lấy chứng chỉ do Ts. Vũ Trọng Dung giảng dạy. Lớp chúng tôi ngồi học cùng với lớp Thạc sĩ Kinh tế của trường. Ngày thi hết môn, tôi ngồi thi cùng phòng với anh Mợi (Bí thư Thành Đoàn, sau đó là Chánh VP UBND TP)

Tháng 5.2001. Chúng tôi học môn Phương pháp Nghiên cứu Khoa học Đại cương và môn Phương pháp Nghiên cứu Khoa học Chuyên ngành.

Tháng 6.2001. Chúng tôi học môn Đô thị hoá và Công tác Qui hoạch Đô thị do GS. TS. KTS Trần Hùng giảng dạy. Tôi thật vui được gặp lại thày giáo hướng dẫn đồ án tốt nghiệp Kiến trúc sư. Tôi đưa thày đi chơi khắp phố phường Hải Phòng. Thày trò tâm sự những công việc và cuộc sống hôm nay.

Môn Mỹ học và Xã hội học Nghệ thuật do GS. TS. KTS Tôn Đại giảng dạy. Thày Tôn Đại thật đa tài, viết sách Nghệ thuật, chơi ghi ta rất hay, và thày là chồng của KTS Thanh Thuỷ (Tác giả của Trà hoa viên nổi tiếng)

Tháng 7.2001. Chúng tôi học môn: Công nghệ thi công hiện đại, do TS. Nguyễn Đình Thám giảng dạy. Môn: Vật liệu xây dựng hiện đại, do TS. Vũ Minh Đức giảng dạy. Môn: Kết cấu Xây dựng hiện đại, do GS. TS. Đoàn Định Kiến giảng dạy…

Mùa thu 2001

Mùa thu 2001, tôi về làm Giám đốc Công ty Thiết kế HTc, cũng thời gian này gia đình tôi có cháu gái đầu lòng. Tôi tập chung vừa học vừa làm. Ổn định sản xuất kinh doanh và phấn đấu đi học thật đầy đủ, không nghỉ buổi học nào, vì khối lượng kiến thức thu thập được từ các thày thật bổ ích. Quan hệ giữa các thầy với các học viên cũng thật gần gũi, thân mật, chứ không có khoảng cách như hồi sinh viên đại học.

Tháng 8.2001. Chúng tôi học môn: Công thái học, do TS Nguyễn Thị Bạch Ngọc giảng dạy. Môn: Qui hoạch Giao thông Đô thị do PGS. TS Lâm Quang Cường giảng dạy. Thày Cường là một trong những chuyên gia đầu ngành của Việt Nam về xử lý các nút giao thông Đô thị.

Tháng 9.2001. Chúng tôi học các môn: Ô nhiễm không khí và xử lý khí thải, do GS. TS Trần Ngọc Chấn giảng dạy. Môn: Cấp thoát nước Đô thị, do TS Trần Hữu Uyển giảng dạy. Môn: Quản lý Môi trường Đô thị, do TSKH Phạm Ngọc Đăng giảng dạy. Môn: Quản lý Xây dựng Đô thị, do GS. TS. Huỳnh Đăng Hy giảng dạy.

Tháng 10.2001. Chúng tôi học môn: Quản lý Qui hoạch và Xây dựng Đô thị, do GS. TS Nguyễn Lân giảng dạy. Thày Nguyễn Lân là KTS trưởng thành phố Hà Nội.

Tháng 11.2001. Chúng tôi học môn: Khí hậu môi trường Kiến trúc, do PGS. TS. Phạm Đức Nguyên giảng dạy.

Tháng 12.2001. Chúng tôi học môn: Công nghiệp hoá Xây dựng và môn: Tổ chức Môi trường lao động, do: GS. TS. Ngô Thế Thi giảng dạy.

Mùa xuân 2002. Chúng tôi tập trung vào làm các bài tiểu luận cho từng môn học. Cả lớp phải ngừng học một thời gian làm bài và công tác. Một số học viên trong lớp giữ các chức vụ quan trọng trong Viện và Sở. Các anh phải tham gia công tác tư vấn cho UBND TP và tham vấn vào các quyết sách quan trọng đưa TP Hải Phòng trở thành Đô thị Loại 1 cấp Quốc gia.

Mùa thu 2002

Mùa thu 2002, tôi về làm Giám đốc Công ty Cổ phần Tư vấn Thiết kế Xây dựng Đất Việt.

Tháng 10.2002. Chúng tôi học môn: Kinh tế Xây dựng, do TS. Đinh Văn Khiên giảng dạy. Môn: Tổ chức Môi trường ở, do TS. Nguyễn Văn Đỉnh giảng dạy.

Tháng 11.2002. Chúng tôi học môn: Lý thuyết Sáng tác Kiến trúc, do PGS. TSKH Nguyễn Mạnh Thu giảng dạy. Môn: Tổ chức Môi trường Công cộng, do TS. Doãn Minh Khôi giảng dạy.

Tháng 12. 2002. Chúng tôi học môn: Tổ chức Môi trường Công cộng, do PGS. TS. Nguyễn Mạnh Thu giảng dạy (Thày Thu dạy tiếp thay cho thày Khôi). Môn: Tổ chức Môi trường Đô thị, do TS. Nguyễn Quốc Thông giảng dạy.

Một mùa xuân mới lại về. Tôi và Công ty Đất Việt đón một cái Tết đầu tiên vui vẻ. chúng tôi lên trường chúc Tết các thày.

Tháng 3.2003. Chúng tôi học môn: Thiết kế Kiến trúc các Công trình Công cộng, do TS. Phạm Đình Việt giảng dạy. Môn: Kiến trúc Cảnh quan, do TS. KTS Hàn Tất Ngạn giảng dạy.

Tháng 4.2003. Chúng tôi học môn: Lý luận phê bình Kiến trúc và môn: Kiến trúc Châu Á, do PGS. KTS. Đặng Thái Hoàng giảng dạy. KTS Đặng Thái Hoàng là con trai của Nhà văn Đặng Thai Mai. Chúng tôi học môn: Bảo tồn di sản Kiến trúc, do TS. Phạm Đình Việt giảng dạy.

Mùa thu 2003

Mùa thu 2003. Chúng tôi bắt đầu làm Luận văn Cao học Thạc sĩ Kiến trúc. Tôi nhận đề tài: Tổ chức Không gian Cảnh quan ven sông Thành phố Hải Phòng, do TS. KTS Nguyễn Sĩ Quế hướng dẫn.

Đó là những kỷ niệm đi lấy tư liệu kiến trúc, viết bài, lên Hà Nội gặp thày hướng dẫn, không thể quên trong quá trình làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Kiến trúc của chúng tôi.

Mùa xuân 2004, tôi nộp bài Luận văn tốt nghiệp Cao học Kiến trúc.

Mùa thu 2004

Cả lớp chúng tôi thi nốt môn tiếng Anh lấy chứng chỉ C, và chuẩn bị bảo vệ Luận văn cao học Kiến trúc trước Hội đồng Khoa Kiến trúc và Hội đồng Nhà trường.

Ngày 30.12.2004, tại trường ĐH Hàng Hải. Lễ Bảo vệ Luận văn Thạc sĩ Kiến trúc diễn ra tốt đẹp. Điểm đồ án tốt nghiệp của tôi được: 9,5. Điểm trung bình toàn khóa học của tôi được: 9,0. Xếp loại: Giỏi.

Và ngày 17.6.2005. Trường Đại học Xây dựng, Trường Đại học Hàng Hải và Sở Xây dựng Hải Phòng đã tổ chức lễ trao bằng Thạc sĩ Kiến trúc cho 13 Kiến trúc sư.

M.T

Bài viết khác

Tác giả: minhtri